Highlight

Những điều thú vị khi dùng Trí tuệ nhân tạo của Viettel

Những người dùng Internet tại Việt Nam thường lấy “chị Google” ra để… giải trí. Khi “chị” đọc văn bản hay chỉ đường cho người tham gia gi...

Friday, March 11, 2016

Phần mềm của 2 cô gái Việt đạt giải nhất cuộc thi start-up Mỹ

Vượt qua 1.200 đối thủ, một start-up giáo dục của hai cô gái người Việt vừa giành chiến thắng tại một cuộc thi khởi nghiệp uy tín tại Mỹ. 

Phần mềm luyện nói tiếng Anh có tên gọi Elsa của 2 cô gái Việt là Văn Đinh Hồng Vũ (33 tuổi) và Ngô Thùy Ngọc Tú (29 tuổi) cùng tiến sĩ Xavier Anguera (Tây Ban Nha) đã giành giải nhất tại cuộc thi SXSWedu (Mỹ) vừa kết thúc hôm nay (10/3) tại Mỹ. SXSWedu là một cuộc thi khởi nghiệp về công nghệ giáo dục được tổ chức tại thành phố Austin (bang Texas). 
Cuộc thi này là một phần trong chuỗi sự kiện SXSW (South by South West), vốn được xem là sự kiện lớn nhất nước Mỹ dành cho ngành công nghiệp sáng tạo. Năm nay, cuộc thi đã thu hút 1.200 công ty công nghệ trên toàn cầu dự thi. Ngày mai (11/3) Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng sẽ có một bài diễn văn tại SXSW về đề tài công nghệ và sáng tạo.
phan-mem-cua-2-co-gai-viet-dat-giai-nhat-cuoc-thi-start-up-my
Chị Văn Đinh Hồng Vũ tại cuộc thi. Ảnh: NVCC
Elsa được thành lập vào năm 2015, bởi 2 cô gái Việt Nam là Văn Đinh Hồng Vũ (CEO) và Ngô Thùy Ngọc Tú (Giám đốc sản phẩm – CPO), cùng với người bạn Tây Ban Nha là tiến sĩ Xavier Anguera (Giám đốc kỹ thuật – CTO). 
Dự án có mục tiêu là ứng dụng các tiến bộ mới nhất trong công nghệ nhận dạng giọng nói để giúp đỡ mọi người phát âm tiếng Anh đúng chuẩn. Thông qua công nghệ học máy (machine learning) do công ty tự phát triển, hệ thống của Elsa có thể tự động phân tích được từng âm một để giúp người học có thể biết chính xác họ đang bị sai ở âm nào, và được chỉ dẫn cụ thể để phát âm đúng.
Bên cạnh nền tảng kỹ thuật, Elsa còn được sự tư vấn của chuyên gia luyện giọng Paul Meier, người từng tham gia nhiều bộ phim Hollywood và lồng tiếng cho nhiều mẫu quảng cáo của các thương hiệu lớn. Nhờ vậy, khi người dùng nói bất kỳ từ và câu tiếng Anh nào trước điện thoại, ứng dụng Elsa sẽ tự động ghi và phân tích, nhận diện giọng nói để giúp họ nhận ra những từ chưa đúng với tiếng Anh của người bản xứ. Ứng dụng này đã có mặt trên hệ điều hành Android và iOS. 
Hiện tại, quỹ FPT Ventures đã tham gia bỏ vốn vào Elsa, bên cạnh 2 nhà đầu tư cá nhân khác. 
Ngọc Tuyên

Cơn sốt trí tuệ nhân tạo

Cơn sốt trí tuệ nhân tạo
Thung lũng Silicon luôn thích “món đồ chơi” mới. Nhìn vào các đợt tăng vốn ồ ạt của các công ty khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ những tuần gần đây, dường như Thung lũng Silicon đã tìm thấy được món đồ chơi mới đó: trí tuệ nhân tạo - một lĩnh vực tiềm năng liên quan đến cách cư xử, học hỏi và khả năng thích ứng thông minh của máy tính như khả năng lập kế hoạch, trả lời các câu hỏi về chẩn đoán bệnh, trả lời khách hàng về các sản phẩm của một công ty, nhận dạng chữ viết tay, nhận dạng tiếng nói và khuôn mặt...
“Trí tuệ nhân tạo hiện đang là một điểm nóng”, Stephen Purpura, sở hữu công ty trí tuệ nhân tạo Context Relevant, nhận xét. Ông cho biết công ty ông đã huy động được hơn 44 triệu USD kể từ khi được thành lập vào năm 2012.
Theo tính toán của ông, hiện có hơn 170 công ty khởi nghiệp tham gia lĩnh vực trí tuệ nhân tạo vì họ tin rằng trí tuệ nhân tạo hứa hẹn mang đến một phương thức mới để con người có thể giao tiếp với máy tính và để máy tính có thể tiếp cận thế giới loài người theo những cách không ngờ tới.
Niềm tin vào “điều vĩ đại kế tiếp”
“Về mặt công nghệ, đó là cuộc chuyển giao từ việc đặt mệnh lệnh vào một “cái hộp” sang một thời điểm khi máy tính có thể nhìn bạn thao tác mà học theo”, Daniel Nadler, một trong những người đặt niềm tin vào trí tuệ nhân tạo, cho biết.
Công ty của ông, Kensho, gần đây đã huy động được 15 triệu USD để theo đuổi một mục tiêu đầy tham vọng: huấn luyện máy tính để có thể thay thế những lao động trí óc quá tốn kém như các chuyên gia phân tích tài chính.
“Chúng tôi không gọi những gì chúng tôi đang làm là trí tuệ nhân tạo mà gọi nó là “tự động hóa công việc tri thức sử dụng nhiều nhân lực”, ông nói.
Trong khi đó, Vicarious, một trong những công ty tham vọng nhất trong ngành này, gần đây đã huy động được 72 triệu USD, sau khi tuyên bố có thể giải được Captcha, một dạng kiểm tra kiểu hỏi đáp được các website sử dụng để xác định xem người dùng có phải là con người hay là máy tính mạo danh.
Sự hứng thú của các nhà đầu tư vào trí tuệ nhân tạo là lý do chính đưa trí tuệ nhân tạo trở thành một trong những xu hướng đầu tư nóng nhất trong hoạt động đầu tư vào các công ty khởi nghiệp.
Theo ông Nadler, mọi danh mục đầu tư mạo hiểm hiện đều cần có một khoản đầu tư vào trí tuệ nhân tạo, bởi tất cả những nhà đầu tư bỏ tiền vào các quỹ đầu tư mạo hiểm đều muốn nghĩ rằng họ có cổ phần trong cái gọi là “điều vĩ đại kế tiếp” của ngành công nghệ.
Các đợt rót vốn của nhà đầu tư vào các công ty như Kensho vẫn còn khiêm tốn, cho thấy giai đoạn sơ khai của hầu hết các công ty khởi nghiệp. Nhưng số lượng lớn các công ty khởi nghiệp huy động được vốn và sự góp mặt của nhiều nhà đầu tư đã cho thấy mức độ hứng thú cao đối với lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.
Những nhà đầu tư quan tâm đến trí tuệ nhân tạo không chỉ có một số công ty đầu tư mạo hiểm hàng đầu ở Thung lũng Silicon như Khosla Ventures hay Greylock Partners, mà còn có các nhân vật có uy tín và tầm ảnh hưởng lớn trong giới công nghệ như Elon Musk (ông chủ của công ty hàng không vũ trụ tư nhân SpaceX) và Peter Thiel (nhà đầu tư mạo hiểm và là người đã đồng sáng lập ra PayPal).
Ủng hộ nhiệt tình cho trí tuệ nhân tạo còn có các công ty nhìn thấy được những công dụng mà họ có thể đem vào sử dụng cho lĩnh vực hoạt động của mình như ngân hàng Mỹ Goldman Sachs.
Dấu hỏi về khả năng sinh lời
Những công ty khởi nghiệp đổ xô vào lĩnh vực này sẽ đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt. Bởi lẽ, những bước tiến lớn nhất trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo đang được triển khai bên trong những tập đoàn công nghệ lớn như Google, IBM và Facebook, vốn đã đầu tư rất lớn vào ngành này.
Các công ty này khá kín miệng về mức độ cam kết của họ đối với công nghệ trí tuệ nhân tạo, nhưng nhìn vào những dự án mà họ công bố, giới chuyên gia tin rằng các công ty này vẫn đang tiếp tục theo đuổi giấc mơ trí tuệ nhân tạo.
Google, chẳng hạn, đã tung ra một cuộc thử nghiệm nhận diện các chú mèo từ các đoạn video clip trên YouTube. Còn Facebook thì có một hệ thống gọi là Deep Face có thể nhận ra các bức ảnh người.
IBM thì có siêu máy tính Watson, từng đánh bại trí tuệ con người trong trò chơi truyền hình hỏi đáp nổi tiếng của Mỹ mang tên Jeopardy.
Tuy nhiên, các ông chủ khởi nghiệp như ông Tim Tuttle, nhà sáng lập Expect Labs, thì không chọn cách phát triển các công nghệ mới mà có xu hướng sử dụng công nghệ hiện có để phát triển các ứng dụng nhắm đến một số đối tượng cụ thể.
Expect Labs, chẳng hạn, phát triển một dịch vụ được kích hoạt bằng giọng nói mà các công ty có thể sử dụng để giúp khách hàng thực hiện những thao tác như tìm kiếm các catalogue trực tuyến một cách dễ dàng.
“Các công ty lớn đang tìm cách để xây dựng công nghệ có thể giải quyết mọi thứ, còn chúng tôi thì tìm cách giải quyết một vấn đề hoàn toàn khác”, ông nói.
Cơn sốt tăng lên đối với trí tuệ nhân tạo một phần lớn là nhờ sự ra đời của các kỹ thuật lập trình mới giúp tăng mức độ thông minh của máy móc. Một trong số đó là kỹ thuật đào tạo, huấn luyện máy tính để nó có thể nhận diện ra những mô-típ quen thuộc và đưa ra các phán đoán bằng cách thu thập và xử lý một khối lượng dữ liệu khổng lồ.
Nhưng giống như các ý tưởng mới cũng tràn trề triển vọng khác, một rủi ro của ngành trí tuệ nhân tạo là nhiều công ty bị thu hút vào lĩnh vực này sẽ thấy rất khó để phát triển các công dụng có thể mang lại lợi nhuận.
“Có nhiều nền tảng trí tuệ nhân tạo giống như các con dao đa năng của quân đội Thụy Sĩ. Chúng có thể làm rất nhiều thứ, nhưng không rõ những ứng dụng giá trị cao của chúng sẽ là gì.
Kết quả là tạo ra một tâm lý theo kiểu “miền Tây hoang dã” trong ngành trí tuệ nhân tạo, nghĩa là các ông chủ khởi nghiệp cứ đổ xô ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào tất cả mọi vấn đề máy tính mà họ có thể nghĩ ra”, ông Tuttle, Expect Labs, nhận xét.
Thế nhưng, các đại gia công nghệ như IBM thì không cho là như vậy. IBM đã nghiên cứu dự án Watson - hệ thống máy tính có khả năng nhận thức có thể đọc và xử lý khối lượng dữ liệu khổng lồ - từ hàng chục năm nay.
Và bà Virginia Rometty, Tổng Giám đốc IBM, tin rằng nó hoàn toàn có thể trở thành một lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lời. Bà cũng từng tuyên bố sẽ đầu tư 1 tỉ USD vào việc nghiên cứu phát triển và thương mại hóa Watson.
Hiện tại, Watson đang được thử nghiệm ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có y tế. Tại Trung tâm Ung thư Memorial Sloan Kettering (New York, Mỹ), bác sĩ đang “dạy” siêu máy tính Watson có thể lọc nhanh dữ liệu từ nhiều ấn phẩm y khoa và từ khối lượng lớn dữ liệu bệnh nhân để giúp các chuyên gia y tế chọn ra phương pháp điều trị tốt nhất chữa căn bệnh ung thư. Rõ ràng, với sự phát triển của công nghệ, không có chuyện gì là không thể.
(Theo FT và Fortune)/NCĐT

Xuất hiện công cụ giúp lướt web nhanh hơn 34%

Tính trung bình, công nghệ mới mang tên Polaris đã giúp việc tải các trang web nhanh hơn so với trình duyệt tiêu chuẩn khoảng 34%

Polaris - một kỹ thuật mới từ Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) ra đời có thể giúp trình duyệt thu thập các tập tin một cách hiệu quả hơn, từ đó đẩy nhanh tốc độ tải trang web. Tốc độ Internet đang ngày càng trở nên nhanh hơn, thế nhưng các trang web thì lại có quá nhiều phức tạp, và đó chính là nguyên nhân khiến chúng ta thường xuyên phải chờ đợi để tải xong một nội dung.

Những đường màu đen thể hiện thứ tự điển hình của các đối tượng trên một trang web được tải, từ trên xuống dưới. Các đường màu đỏ thể hiện cách Polaris kết nối các dấu chấm lại với nhau.
Những đường màu đen thể hiện thứ tự điển hình của các đối tượng trên một trang web được tải, từ trên xuống dưới. Các đường màu đỏ thể hiện cách Polaris kết nối các dấu chấm lại với nhau.
"Khi các trang web gia tăng độ phức tạp, chúng thường đòi hỏi nhiều yếu tố tạo nên sự chậm trễ”, Ravi Netravali - một trong những nhà nghiên cứu giải thích. “Cách tiếp cận của chúng tôi sẽ giảm thiểu số lượng đường vòng, từ đó có thể tăng tốc độ tải trang lên đáng kể”. Polaris đã được hợp tác phát triển bởi các nhà khoa học đến từ Đại học Khoa học Máy tính và Phòng thí nghiệm Trí tuệ nhân tạo (thuộc MIT) và Đại học Harvard.
Tải một trang web là một quá trình cực kỳ phức tạp. Sau khi truy cập vào một URL hoặc click vào một liên kết, trình duyệt của bạn sẽ tiến hành thu thập hàng loạt các tập tin đối tượng, bao gồm HTML, JavaScript, hình ảnh và nhiều thứ khác. Mỗi đối tượng được đánh giá, sau đó thêm vào trang web mà bạn đang xem. Tuy nhiên, quá trình đánh giá đó có thể dẫn đến việc phải tải vài thứ khác, tùy vào phần phụ thuộc (dependancies) của các đối tượng. Trình duyệt hoàn toàn không biết gì những nội dung phải tải thêm, cho đến khi nó lấy được đối tượng đầu tiên. Chính điều này đã khiến việc load một trang web trở nên chậm chạp hơn và đó cũng là lý do cho sự ra đời của Polaris.
Xuất hiện công cụ giúp lướt web nhanh hơn 34%
​ Nhiệm vụ của Polaris chính là ghi nhận tất cả dependancies và ‘chôn lấp’ chúng đi. Nó sẽ tổng hợp tất cả các phần phụ thuộc này và lập ra một biểu đồ, giúp trình duyệt tải xuống các thành phần của trang hiệu quả hơn.
Để dễ hiểu, các nhà nghiên cứu so sánh nó với việc đi du lịch của một ai đó. “Khi bạn đến thăm một thành phố, đôi khi bạn có thể khám phá ra thêm các thành phố mà bạn muốn đến, trước khi về nhà. Nếu như có ai đó đưa cho bạn toàn bộ danh sách các thành phố trước đó, bạn có thể lên kế hoạch cho các tuyến đường nhanh nhất có thể. Tuy nhiên, nếu không có danh sách này, bạn sẽ phải đi vòng giữa các thành phố...
Đối với trình duyệt web, tải tất cả các đối tượng của một trang giống như việc đi qua tất cả các thành phố. Polaris hiệu quả ở chỗ nó mang lại cho bạn một danh sách của tất cả các thành phố, trước chuyến đi thực sự bắt đầu”. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành thử nghiệm hệ thống của mình trên 200 trang web khác nhau, bao gồm ESPN, Weather.com và Wikipedia.
Xuất hiện công cụ giúp lướt web nhanh hơn 34%
Tính trung bình, Polaris đã giúp việc tải các trang web nhanh hơn so với trình duyệt tiêu chuẩn khoảng 34%. Được viết bằng ngôn ngữ JavaScript, Polaris có thể được sử dụng cho bất kỳ trang web nào và hiệu quả của nó không phụ thuộc vào trình duyệt. Nhưng hy vọng lâu dài của các nhà khoa học là tích hợp nó vào các trình duyệt mà chúng ta sử dụng. Trong vài tháng tới, nhóm nghiên cứu dự định sẽ phổ biến công cụ của họ cho tất ce mọi người, nhằm nhận được sự phản hồi, từ đó cải thiện tính hiệu quả của Polaris.
(Tham khảo Tinh Tế)

Thursday, March 10, 2016

Trí tuệ nhân tạo tiếp tục “đánh bại” trí tuệ con người

AlphaGo, chương trình trí tuệ nhân tạo do Google phát triển đã giành chiến thắng đầu tiên trong trận “thư hùng” với Lee Se-dol, nhà vô địch cờ vây thế giới. Cờ vây vốn được xem là môn thể thao trí tuệ mà con người tự tin sẽ không bị trí tuệ nhân tạo đánh bại. Lee Se-dol, kỳ thủ cờ vây 9 đẳng người Hàn Quốc và là nhà vô địch thế giới môn cờ vây, đã thất bại trong trận đánh đầu tiên với chương trình trí tuệ nhân tạo có tên AlphaGo do Google phát triển, trong trận cờ diễn ra tại thủ đô Seoul (Hàn Quốc) vào hôm thứ 4 (9/3) vừa qua.
Màn so tài giữa Lee Se-dol và AlphaGo sẽ kéo dài trong 5 ván đấu và được truyền hình trực tiếp. Nếu Se-dol chiến thắng AlphaGo sẽ giành được giải thưởng có trị giá lên đến 1 triệu USD và tái khẳng định danh hiệu vô địch thế giới trong môn cờ vây của mình.
Lee Se-dol (phải), nhà vô địch thế giới môn cờ vây và CEO Demis Hassabis của Google DeepMind, đơn vị phát triển AlphaGo, đang thực hiện cuộc gọi video với nhau trước trận đấu diễn ra tại Seoul.
Lee Se-dol (phải), nhà vô địch thế giới môn cờ vây và CEO Demis Hassabis của Google DeepMind, đơn vị phát triển AlphaGo, đang thực hiện cuộc gọi video với nhau trước trận đấu diễn ra tại Seoul.
Ngược lại, nếu AlphaGo giành chiến thắng thì đây sẽ đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển của trí tuệ nhân tạo khi vượt qua được con người trong môn cờ vây, vốn được xem là một cờ có tính biến hóa cao nhất và là môn thể thao trí tuệ mà con người không thể bị đánh bại bởi trí tuệ máy móc. Bên cạnh đó, Google sẽ sử dụng số tiền thưởng 1 triệu USD cho mục đích từ thiện.
“Tôi đã được nghe chương trình AlphaGo là ngày càng được cải tiến mạnh mẽ hơn, nhưng tôi tự tin mình có thể giành chiến thắng”, Lee Se-dol tự tin tuyên bố trước trận đấu diễn ra.
Lee Se-dol, 33 tuổi, hiện đang nắm giữ cấp độ cao nhất trong môn cờ vây chuyên nghiệp, 9 đẳng, và được biết đến với biệt danh “Roger Federer của cờ vây”.
Những trận đấu còn lại giữa AlphaGo và Lee Se-dol sẽ tiếp tục được diễn ra từ ngay cho đến ngày 15/3 và được truyền hình trực tiếp trên kênh Youtube của Google DeepMind, bộ phận chịu trách nhiệm phát triển AlphaGo. Bạn đọc quan tâm có thể xem trực tiếp các trận đấu này tại đây.
Trước đó vào tháng 10 năm ngoái, AlphaGo đã đánh bại nhà vô địch cờ vây châu Âu Fan Hui trong trận đấu kéo dài 5 ván đấu, và đây là lần đầu tiên một chương trình trí tuệ nhân tạo giành chiến thắng trước một nhà vô địch cờ vây và được xem là một bước đột phá lớn, thậm chí điều này diễn ra sớm hơn 1 thập kỷ so với các chuyên gia từng dự đoán.
Cờ vây được cho là ra đời tại Trung Quốc cách đây gần 2.500 năm, chơi bằng cách đặt những quân cờ màu đen hoặc trắng lên bàn cờ gồm ma trận các hình vuông (tạo ra bởi 19 đường ngang và 19 đường dọc). Khi một quân cờ bị vây quanh bởi các quân cờ màu sắc khác sẽ bị bắt giữ. Mục đích của trò chơi là kiểm soát ít nhất 50% bàn cờ.
Cờ vây được thừa nhận là trò chơi có nước đi biến hóa và đa dạng nhất trong các loại cờ, vượt trội so với cờ vua hay cờ tướng. Do vậy, đây là một thử thách không nhỏ cho các chương trình máy tính cũng như các nhà lập trình nên chúng. Dạy cho máy tính làm chủ được cờ vây được xem là “chén thánh” và là mục tiêu nhắm đến của các nhà khoa học trí tuệ nhân tạo.
“Cờ vây là trò chơi sâu sắc nhất mà nhân loại đã từng nghĩ ra”, Demis Hassabis, CEO của Google DeepMind, bộ phận phát triển AlphaGo, chia sẻ. “Cờ vây là một trò chơi chủ yếu về trực giác và cảm nhận, đòi hỏi một chiến thuật hợp lý, điều này khiến cho cờ vây trở thành rất phức tạp để máy tính có thể nắm bắt và chơi tốt”.
Dĩ nhiên, Google không chỉ muốn phát triển một cỗ máy trí tuệ nhân tạo để có khả năng đánh bại con người trong môn cờ vây, mà dự định trong tương lai sẽ áp dụng những thuật toán với cách suy nghĩ như con người này vào những cỗ máy nhân tạo có khả năng đưa ra các giải pháp phù hợp trong nhiều lĩnh vực như y tế, chăm sóc sức khỏe, dự báo thời tiết...
Google đã mua lại DeepMind, công ty có trụ sở tại Anh, vào năm 2014 như một nỗ lực để tăng cường danh mục đầu tư của mình trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và robot. Xem video


Trí tuệ nhân tạo, deep learning, machine learning là gì?

Trí tuệ nhân tạo (artificial intelligence - AI) giờ xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nó là thứ được sử dụng để trả lời email tự động trên Gmail, học cách lái xe cho chúng ta ngồi chơi, sắp xếp lại ảnh của những chuyến đi chơi thành từng album riêng biệt, thậm chí còn giúp quản lý ngôi nhà hay đi mua sắm nữa. Nhưng bạn có biết là trí tuệ nhân tạo không chỉ đơn giản là một thực thể mà nó còn được chia thành nhiều loại nhỏ hơn? Những hạn chế hiện tại của sản phẩm trí tuệ nhân tạo là gì? Và vì sao chúng ta không cần (hay chưa cần) phải lo lắng về việc trí tuệ nhân tạo bùng lên chiếm lấy thế giới?

Neural network, machine learning, deep learning là gì?

Neural network không nhất thiết phải dựa trên phần cứng, nó vẫn có thể là phần mềm và các giải thuật.
Neural network không nhất thiết phải dựa trên phần cứng, nó vẫn có thể là phần mềm và các giải thuật.
Đây là những cụm từ mà bạn rất thường hay thấy trong những thông tin liên quan đến trí tuệ nhân tạo. Về cơ bản, bạn có thể nghĩ về những thứ này như các lớp cấu thành trí tuệ nhân tạo.
Neural network, tạm gọi là mạng lưới thần kinh nhân tạo, sẽ nằm dưới cùng. Đây là hệ thống các máy tính và thiết bị hệ thống điện toán nói chung được kết nối theo một cách nào đó để mô phỏng lại một phần cách hoạt động của các nơ-ron thần kinh trong não người. Những chiếc máy tính trong neural network có thể nằm gần nhau trong cùng một phòng hay cách xa nhau cả nghìn cây số, mỗi một chiếc máy tính trong đó có thể được xem như một đơn vị thần kinh, gọi là node.
Neural network không nhất thiết phải dựa trên phần cứng, nó vẫn có thể là phần mềm và các giải thuật.
Khái niệm về neural network đã có từ những năm 1950 với sự ra đời của ngành nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo. Người ta nói rằng khi nằm riêng biệt, những node máy tính này chỉ chạy những gì được lập trình sẵn và chỉ có thể trả lời những câu hỏi đơn giản, hay nói cách là nó "không thông minh". Cũng giống như trong cơ thể người, một nơ-ron không chưa làm nên chuyện, nhưng khi kết nối chúng thành một mạng lưới dày đặt thì mọi chuyện sẽ khác đi rất nhiều. Khi các hệ thống máy tính được nối lại với nhau, chúng có thể giải quyết những vấn đề khó khăn hơn. Và quan trọng nhất, khi áp dụng đúng thuật toán, người ta có thể "dạy học" cho máy tính.
Lớp kế tiếp là machine learning. Đây là một chương trình chạy trên neural network, nó sẽ làm nhiệm vụ huấn luyện máy tính để "học hỏi" một vấn đề gì đó, ví dụ như học hỏi từ hàng nhìn mẫu chữ viết tay của người dùng để đoán xem đó là kí tự gì, hoặc học từ hàng nghìn bức ảnh chụp bãi biển để tìm ra điểm chung và sau đó nhìn phát là biết ngay tấm này chụp biển chứ không phải chụp núi.
Deep learning nằm ở trên cùng. Đây là một nhánh đặc biệt của ngành khoa học machine learning. Deep learning trở nên phổ biến trong thập kỉ gần đây nhờ vào sự gia tăng nhanh chóng của lượng dữ liệu số mà loài người tạo ra, ngoài còn nhờ sức mạnh xử lý của máy tính gia tăng trong khi giá thành giảm xuống. Sẽ nói kĩ hơn về deep learning ở bên dưới.

Trí tuệ nhân tạo hoạt động ra sao?

Giả sử như bạn muốn một cái máy tính biết cách băng qua đường. Theo cách truyền thống, chúng ta sẽ lập trình cho nó cách nhìn trái, nhìn phải, cách đợi xe chạy qua hết, cách đi đúng vạch băng đường theo luật và nhiều thứ khác, sau đó để cho máy tự đi.
Còn với kĩ thuật trí tuệ nhân tạo, mà cụ thể là một chương trình machine learning, bạn sẽ cho máy tính xem 10.000 đoạn video về cách băng đường an toàn. Kế tiếp bạn lại cho nó xem thêm 10.000 đoạn video nữa nhưng lần này chiếu cảnh người ta bị xe tông khi băng đường ẩu. Lúc này bạn mới thả cho nó tự băng đường.
Deep learning sử dụng nhiều lớp trong một neural network để phân tích dữ liệu theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Deep learning sử dụng nhiều lớp trong một neural network để phân tích dữ liệu theo nhiều khía cạnh khác nhau.
Phần khó nhất đó là bạn phải làm sao cho máy tính hiểu và tiếp thu được thông tin từ các video này, cũng giống như phần khó nhất khi đi dạy học là phải làm cho học sinh hiểu được bạn nói gì và ghi nhớ điều đó. Trong nhiều thập kỉ qua, người ta đã thủ nhiều phương pháp khác nhau để dạy cho máy tính học. Một trong những cách đã được xài đó là "reinforcement learning", tức là bạn sẽ "thưởng" cho máy tính khi nó làm đúng thứ bạn muốn rồi từ từ tối ưu để đạt kết quả tốt nhất. Người ta vẫn thường hay huấn luyện thú vật theo cách này. Một cách khác nữa là "chọn lọc tự nhiên", tức là nhiều cách giải quyết cùng một vấn đề sẽ được áp dụng cho chạy song song, cái này giải được nhanh và chính xác nhất sẽ thắng những cái còn lại.
Còn trong thời đại ngày nay, người ta xài một phương pháp gọi là deep learning. Deep learning sử dụng nhiều lớp trong một neural network để phân tích dữ liệu theo nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ, nếu bạn đưa cho máy tính học một tấm ảnh theo kĩ thuật deep learning, mỗi lớp trong mạng lưới thần kinh nhân tạo này sẽ nhìn nhận vấn đề theo một cách riêng. Lớp dưới cùng sẽ chỉ đơn giản là vẽ ra một cái lưới 5x5 lên tám ảnh và đánh dấu "có" hoặc "không" khi có một đối tượng xuất hiện trong ô. Nếu "có", lớp bên trên sẽ bắt đầu nhìn vào từng ô này một cách kĩ càng hơn, nó phân tích xem đây có phải là điểm đầu của một đường thẳng không, hay đây là một cái góc nghiêng? Thật nhiều lớp như thế sẽ giúp phần mềm hiểu được những vấn đề phức tạp, tất cả đều dựa trên các bẻ nhỏ nó ra rồi "điều tra" từ từ. Cũng chính vì lý do này mà người ta gọi đây là "deep", tức là sâu và có nhiều lớp.
Kĩ thuật được Facebook áp dụng để nhận diện gương mặt, trong đó chia bức ảnh thành lớp khác nhau để học hỏi​.
Kĩ thuật được Facebook áp dụng để nhận diện gương mặt, trong đó chia bức ảnh thành lớp khác nhau để học hỏi​.
Yann LeCun, trưởng bộ phận trí tuệ nhân tạo của Facebook, cho biết: "Khi bạn đi lên các lớp cao hơn thì những thứ được phát hiện sẽ càng lúc càng rộng hơn. Càng lúc càng có nhiều khía cạnh hơn được phân tích. Và khi bạn leo lên đến lớp cao nhất, bạn sẽ có những công cụ để cho bạn biết bức hình đó đang chụp người hay một chút chó hay một chiếc máy bay".
Nãy giờ chúng ta chỉ mới nói đến chuyện nhận biết, giờ thì đến lúc dạy cho máy tính biết thứ mà nó vừa nhận ra là gì. Một hệ thống neural network lại được sử dụng, nhưng lần này nó sẽ xem xét nhiều đặc điểm của một con mèo. Rất nhiều bức hình chụp mèo cũng sẽ được đưa cho hệ thống xem kèm theo lời dặn: đây là ảnh con mèo đó nha. Rồi người ta lại cho máy xem thêm một loạt ảnh khác nữa chụp chó, heo, gấu, vịt và dặn: đây không phải là con mèo. Thông qua hàng loạt dữ liệu như vậy, phần mềm sẽ biết được những con mèo thường có điểm chung gì, móng, lông, tay chân, đầu, đuôi của chúng ra sao thì mới được gọi là mèo...
Theo thời gian, máy sẽ ghi nhớ những dữ liệu này và sắp xếp theo thứ tự quan trọng. Ví dụ, móng vuốt không chỉ mèo mới có, nhưng nếu móng đi chung với bàn chân to và ria mép thì đây đích thị là con mèo. Các mối liên hệ như thế này cũng sẽ được cung cấp theo thời gian trong quá trình phần mềm machine learning học hỏi các ảnh. Quy trình này diễn ra trong thời gian dài và lặp đi lặp lại nhiều lần. Cứ lần sau nó sẽ tốt hơn lần trước vì được góp ý từ con người hoặc thậm chí là từ những hệ thống trí tuệ nhân tạo khác.
Bạn có thể thấy rằng chỉ để nhận biết được một con mèo thôi đã phức tạp quá chừng, trong khi các hệ thống machine learning của Facebook, Google hay Microsoft phải nhận biết nhiều thứ khác nữa trong đời sống. Thế nên, việc Microsoft tự hào khi phát hành một ứng dụng có khả năng nhận biết các giống chó khó nhanh nghe có vẻ đơn giản nhưng phía sau nó là cả một mạng lưới thần kinh nhân tạo phức tạp và đã bắt đầu chạy học hỏi trong thời gian rất dài rồi.
Hình ảnh được tạo ra từ dự án trí tuệ nhân tạo Google Drea​.
Hình ảnh được tạo ra từ dự án trí tuệ nhân tạo Google Drea​.

Đây có phải là thứ mà Google, Facebook và nhiều công ty khác đang sử dụng?

Câu trả lời chung sẽ là "Đúng rồi".
Deep learning hiện tại đang được xài cho nhiều tác vụ khác nhau. Các công ty công nghệ lớn thường lập riêng một bộ phận trí tuệ nhân tạo. Google, Facebook còn mở những hệ thống phần mềm machine learning của mình ra cho mọi người sử dụng. Google hồi tháng trước cũng mới mở một khóa học kéo dài 3 tháng vè machine learning và deep learning.
Một vài ví dụ về machine learning đó là công cụ Google Photos. Nó có khả năng nhận biết và phân loại hình ảnh mà bạn chụp theo từng chủ đề khác nhau, thậm chí là theo từng khuôn mặt khác nhau một cách tự động. Hay Facebook M, một trợ lý ảo cá nhân nửa người nửa máy có thể giúp bạn đặt một số món hàng mà bạn muốn. Microsoft với Cortana, Google với Google Now và Apple với Siri đều là những ví dụ rất thực của trí tuệ nhân tạo.
Đây cũng là lý do vì sao mà trong thời gian gần đây chúng ta bắt đầu nghe nói nhiều về machine learning, deep learning và trí tuệ nhân tạo. Đó là vì các hãng tiêu dùng lớn đã bắt đầu nhảy vào cuộc chơi và đưa ra những sản phẩm thực tế mà người ta có thể cầm nắm và trải nghiệm. Trước đó, deep learning và machine learning chỉ nằm trong các phòng thí nghiệm ở những viện nghiên cứu và trường đại học mà thôi.

Hạn chế của trí tuệ nhân tạo hiện nay

Deep learning đang được sử dụng cho những thứ như nhận dạng giọng nói và nhận dạng hình ảnh, những thứ có nhiều tiềm năng thương mại hóa. Nhưng song song đó, nó cũng còn nhiều hạn chế.
Đầu tiên, deep learning cần một lượng dữ liệu đầu vào khổng lồ để máy tính có thể học hỏi. Quy trình này mất nhiều thời gian, nhiều sức mạnh xử lý mà chỉ có các server cỡ lớn mới làm được. Nếu không có đủ dữ liệu đầu vào, hay có đủ dữ liệu nhưng không đủ sức mạnh để xử lý, thì mọi thứ không thể diễn ra đúng như ý định, kết quả do máy học sẽ không chính xác.
Thứ hai, deep learning vẫn chưa thể nhận biết được những thứ phức tạp, ví dụ như các mối liên hệ thông thường. Chúng cũng sẽ gặp khó khăn khi cần nhận biết những thứ tương tự nhau. Lý do là vì hiện chưa có kĩ thuật nào đủ tốt để trí tuệ nhân tạo có thể rút ra những kết luận đó một cách logic. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều thách thức trong việc tích hợp kiến thức trừu tượng vào các hệ thống machine learning, ví dụ như thông tin về vật đó là gì, nó dùng để làm gì, người ta hay xài nó làm sao... Nói cách khác, machine learning chưa có được những kiến thức thông thường như con người.
Một ví dụ rất cụ thể cho các bạn dễ hiểu: trong một dự án của Google, một mạng lưới thần kinh được sử dụng để tạo ra bức ảnh của một quả tạ mà người ta hay cầm tập trong phòng gym. Kết quả đưa ra khá ấn tượng: hai vòng tròn màu xám được kết nối bằng một cái ống ngang. Nhưng ở giữa cái ống này còn có cánh tay của con người, và đây không phải là thứ nằm trong "đề bài". Lý do thì khá là dễ đoán: hệ thống được dạy về quả tạ bằng những tấm hình chụp người ta đang cử tạ, vậy nên dính tay người vào là chuyện hiển nhiên. Hệ thống có thể biết được quả tạ ra sao, nhưng nó không biết là quả tạo sẽ không bao giờ có cánh tay cả.
Bên cạnh việc mang lại nhiều lợi ích, deep learing cũng còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh việc mang lại nhiều lợi ích, deep learing cũng còn nhiều hạn chế.
Với một số bức hình đơn giản hơn nhưng mahcine vẫn nhầm lẫn. Thử nghiệm của một nhóm nhà nghiên cứu cho thấy rằng khi họ đưa máy tính xem một loạt ảnh chỉ có các pixel ngẫu nhiên nhưng máy lại chắc chắn đây 95% là một cái... xe tải, hay là một con sao biển...
Đó chưa phải là tất cả. Theo lời của nhà khoa học máy tính Hector Levesque, những công cụ trí tuệ nhân tạo hiện nay sử dụng nhiều "mánh" để xóa đi những lỗ hổng thật sự trong kiến thức của chúng. Các trợ lý ảo như Siri hay Cortana thường làm cho bạn có cảm giác bạn đang nói chuyện với người thật vì chúng sử dụng các câu nói đùa, câu trích dẫn, các biểu hiện cảm xúc và nhiều thứ khác, cốt chỉ để bạn phân tâm.
Bạn hãy thử hỏi những thứ cần đến suy nghĩ thông thường, ví dụ như "con cá xấu có lái xe được không" hay "một cầu thủ đá banh có được phép gắn cánh để bay hay không". Các câu hỏi dạng này quá phức tạp với những hệ thống trí tuệ nhân tạo hiện nay nên thường sẽ không có kết quả nào được trả về cho bạn, nếu có cũng là những thứ không liên quan hay chỉ đơn giản là search câu nói của bạn trên Internet.

Mùa đông AI

Ngành khoa học trí tuệ nhân tạo là một ngành dễ lên nhưng cũng dễ xuống. Năm 1958, tờ New York Times từng nói về một chiếc máy có khả năng phân biệt bên trái và bên phải như là một dạng mầm sống của robot thông minh. Nhưng đến nay, chúng ta vẫn chưa thể tạo ra được một con robot nào có trí thông minh đến vậy. Và khi những lời hứa hẹn đó không được thực hiện, người ta dùng từ "mùa đông AI". Đó là giai đoạn mà lượng tiền đầu tư cho AI giảm mạnh, ít còn ai nhắc về nó, và người ta cũng tỏ ra hoài nghi về những kết quả có thể đạt được. Tính đến nay đã có khoảng 6 "mùa đông AI" nhỏ và 2 mùa lớn từng xuất hiện, vào cuối những năm 70 và đầu các năm 90.

Trí tuệ nhân tạo có tri giác?

Nhiều người đang làm việc trong ngành trí tuệ nhân tạo cho rằng chúng ta sẽ rất khó để tạo ra một trí tuệ nhân tạo có tri giác. "Có rất ít bằng chứng ở thời điểm hiện tại cho thấy hi vọng về việc tạo ra một trí tuệ nhân tạo có tính linh hoạt cao và làm được những thứ mà chúng không được tạo ra để thực hiện", theo lời giáo sư Andrei Barbu từ đại học MIT. Ông nhấn mạnh việc nghiên cứu trí tuệ nhân tạo hiện nay chỉ tạo ra được những hệ thống được tối ưu để giải quyết một vấn đề cụ thể mà thôi.
Cũng đã có một số công trình nghiên cứu về việc cho máy tính học nhưng không cần sự giám sát, tức là cứ đưa dữ liệu cho máy học mà không dán nhãn đúng sai hay giải thích gì cả. Tuy nhiên, Andrei Barbu nhận xét những dự án như thế này vẫn chưa có tiến triển nào và vẫn còn rất xa xời để đến được ngày có kết quả. Một ví dụ đã từng xuất hiện đó là một hệ thống neural network của Google đã từng lấy ngẫu nhiên ảnh thumbnail của 10 triệu video trên YouTube để tự dạy mình con mèo trông giống như thế nào. Thế nhưng, Google nói đây chỉ là một thử nghiệm và không nói gì về độ chính xác của nó cả.
Nói cách khác, chúng ta vẫn chưa biết cách làm cho máy tính tự học mà không cần giám sát. Đó là rào cản lớn nhất. Tức là vẫn còn rất xa mới tới cái ngày mà robot có tri giác và đánh trả lại con người.
Như Elon Musk đã nói, công ty ông có tạo ra một trí tuệ nhân tạo cho tính năng tự lái xe trên những chiếc Tesla. Nhưng ông chưa bao giờ nói rằng nó sẽ biết hết mọi thứ. Đây chỉ đơn giản là một mạng lưới giúp các xe học hỏi lẫn nhau. Khi một chiếc này học được điều gì thì những chiếc khác cũng biết điều tương tự. Kết quả cuối cùng không phải là những chiếc xe có thể làm mọi thứ trên đời, nó chỉ để giải quyết một vấn đề rất cụ thể mà thôi.
Theo Tinh Tế

Những người phụ nữ đóng góp cho thành công của ông lớn công nghệ

Đây là những nữ kỹ sư thành công, những người dẫn đầu các công nghệ quan trọng tại những tập đoàn khổng lồ trên thế giới.

Gần như mọi yếu tố trong cuộc sống hiện đại của chúng ta như điều khiển điện nước, Internet, xây dựng, xe hơi, điện thoại, máy tính, truyền hình và thậm chí các ứng dụng hẹn hò đều được tạo ra bởi một số kỹ sư.
Từ trước tới nay, kỹ thuật là một ngành nghề khắc nghiệt với phụ nữ. Tuy nhiên, không ít phụ nữ đã vượt qua mọi rào cản, theo đuổi đam mê và gặt hái được thành công trong ngành kỹ thuật.
Trong bài viết này, mời độc giả cùng tìm hiểu về 10 nữ kỹ sư quyền lực nhất làng công nghệ năm 2016.
1. Diane Greene (Google)
Diane Greene là một kỹ sư, doanh nhân quyền lực trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, sự nghiệp của bà còn tỏa sáng hơn nữa vào năm 2015 khi Google mua lại hãng startup mà bà đang phát triển. Gã khổng lồ tìm kiếm còn bổ nhiệm bà vào vị trí điều hành mảng kinh doanh điện toán đám mây.
Thành công lớn đầu tiên của Greene là VMware, công ty mà bà cùng ông chồng Medel Rosenblum, một giáo sư tại Đại học Stanford, và vài cộng sự khác tạo dựng. Bà dẫn dắt VMware với tư cách CEO đầu tiên sau khi công ty tiến hành IPO. Bà trở thành một nhà đầu tư cho các startup và âm thầm phát triển startup mới của riêng bà sau khi bán VMware cho EMC với giá 635 triệu USD.
Bà gia nhập ban giám đốc Google sau khi startup mới của bà được gã khổng lồ tìm kiếm mua với giá 380 triệu USD. Hiện tại bà cũng nằm trong ban giám đốc của Intuit và MIT. Gần đây, bà cùng chồng quyên góp dần dần số tài sản trị giá 150 triệu USD cho từ thiện.
Tại Google, Greene lãnh đạo một nhóm mới kết hợp tất cả các doanh nghiệp điện toán đám mây của công ty. Mục tiêu của Google là phát triển mảng điện toán đám mây vượt qua mảng quảng cáo trong năm 2020. Mảng quảng cáo mang lại cho Google doanh thu 66 tỷ USD vào năm ngoái nên công việc mà Greene đang đảm nhiệm cực kỳ quan trọng và cũng không kém phần khó khăn.
2. Peggy Johnson (Microsoft)
Peggy Johnson là phó chủ tịch điều hành phủ trách phát triển kinh doanh của Microsoft và là một trong những bản hợp đồng tuyển dụng lớn nhất của CEO Satya Nadella sau khi ông lên thay thế Steve Ballmer.
Bà tới với Microsoft sau 24 năm gắn bó cùng Qualcomm và không bỏ lỡ bất cứ khoảng thời gian nào trong cương vị mới được Nadella giao phó. Johnson đã giúp Nadella xây dựng một văn hóa hợp tác mới, tăng cường quan hệ đối tác với Salesforce, Dropbox, Uber, Yahoo và AOL.
Ngoài ra, bà còn đại diện cho Hoa Kỳ tại Hội đồng Tư vấn Hợp tác Kinh doanh Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương và nằm trong ban lãnh đạo của một vài doanh nghiệp như nền tảng lãnh đạo cho phụ nữ của AOL, Makers và Live Nation Entertainment.
3. Tara Bunch (Apple)
Bunch hiện giữ chức phó chủ tịch phụ trách AppleCare, đơn vị hỗ trợ và dịch vụ kỹ thuật của Apple. Đơn vị này được sinh ra để đảm bảo rằng nếu có bất cứ điều gì không ổn xảy ra với thiết bị mang mác Táo của bạn, Apple sẽ sửa chữa nó cho bạn.
Xét về mức độ hài lòng của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ, Apple luôn đứng đầu trong làng công nghệ. Và Bunch phải giám sát, đảm bảo điều này nhằm duy trì sự thành công của công ty.
Bunch gia nhập Apple vào năm 2012 sau 20 năm gắn bó với HP. Ở HP, bà đảm nhiệm vị trí phó chủ tịch cao cấp phụ trách dịch vụ khách hàng và hỗ trợ hoạt động toàn cầu.
4. Jessica McKellar (Dropbox)
Jessica McKellar là giám đốc kỹ thuật tại Dropbox và là một nhân vật quan trọng trong thế giới Python, một ngôn ngữ lập trình web khá phổ biến.
Cô là người sáng lập và phó chủ tịch phụ trách kỹ thuật tại Zulip, một dịch vụ tương tự Yammer/Slack. Hai năm sau khi ra mắt, Dropbox đã mua lại Zulip, giữ cô lại và tung Zulip miễn phí cho người dùng như một dự án mã nguồn mở.
Đây là hãng khởi nghiệp thứ hai mà cô sáng lập và bán được nhanh chóng. Startup đầu tiên của cô, Ksplice, được bán cho Oracle. Ksplice cung cấp cho người dùng cách cập nhật phần mềm Linux.
McKellar đóng góp rất nhiều vào thế giới mã nguồn mở. Cô đã viết code cho kernel, trái tim, trên Linux, và là thành viên của Python Software Foundation. Ngoài ra, cô còn dìu dắt những lập trình viên khác thông qua các cuộc thu như Google Summer of Code, GNOME Outreach for Women và Hacker School.
Cô cũng là đồng tác giả của nhiều cuốn sách, một diễn giả thường xuyên và là người quy tụ được nhóm người dùng Python lớn nhất thế giới. Hơn tất cả, cô được lọt vào vòng chung kết cuộc thi Red Hat's Women in Open Source Awards.
5. Sharon Frinks Chiarella (Amazon)
Sharon Frinks Chiarella giữ chức phó chủ tịch Amazon, phụ trách một mảng được gọi là "Mua sắm cộng đồng".
Sharon tự làm lên tên tuổi cho bản thân ở Amazon khi bà trở thành phó chủ tịch mảng Amazon Mechanical Turk, một dịch vụ làm việc cộng đồng. Bà lãnh đạo nó từ khi không ai biết về làm việc cộng đồng. Hiện nay, có hơn 50.000 người trên toàn thế giới đang chia sẻ công việc và làm việc trên Mechanical Turk.
Trước khi tới Amazon, Sharon đã từng làm việc tại Microsoft, Yahoo và dịch vụ email trực tuyến Presto.
6. Anna Patterson (Google)
Patterson là phó chủ tịch phụ trách kỹ thuật trong nghiên cứu và trí thông minh máy móc tại Google.
Cô có một sự nghiệp đáng ngưỡng mộ tại Google khi bắt đầu với công việc trên công cụ tìm kiếm web và lãnh đạo nhóm Quảng cáo và Mua sắm. Trong thời điểm quan trọng nhất với Google Play, khi smartphone Android bùng nổ từ 40 triệu lên 800 triệu chiếc, cô là người chịu trách nhiệm chính.
Năm 2005, cô bỏ việc để khởi nghiệp, cạnh tranh với chính Google bằng một trang web tìm kiếm mới có tên Cuil. Cô đã thu hút được số vốn 33 triệu USD nhưng không thành công.
Google đón cô trở lại với vòng tay rộng mở và bổ nhiệm cô vào vị trí lãnh đạo mới trong một lĩnh vực khá quan trọng đó là máy học. Tất cả các hãng công nghệ lớn đều đang đầu tư rất nhiều vào việc xây dựng hệ thống máy tính thông minh hơn, tạo xương sống cho các dịch vụ điện toán đám mây và thiết bị thông minh hơn, Google cũng không ngoại lệ.
Đam mê kỹ thuật đã ngấm vào máu của Patterson bởi cha cô là một kỹ sư của NASA.
7. Denise Dumas (Red Hat)
Dumas là phó chủ tịch phụ trách kỹ thuật hệ điều hành tại Red Hat. Bà lãnh đạo nhóm phát triển sản phẩm chủ lực của Red Hat, Red Hat Enterprise Linux (RHEL).
RHEL là một phiên bản Linux cực kỳ phổ biến, được sử dụng bởi hơn 90% công ty trong danh sách 500 công ty hàng đầu do Fortune bình chọn, Red Hat tuyên bố.
Dumas gia nhập công ty vào năm 2008 ở vị trí quản lý kỹ thuật cao cấp rồi từ đó thăng tiến lên vị trí hiện tại. Bà hiện đang quản lý một đội ngũ gồm hàng trăm nhà phát triển trên khắp thế giới.
"Tôi phải giữ cho tàu chạy đúng giờ, giữ mọi người kết nối với nhau và nhận diện những tác động mà công việc của nhóm ảnh hưởng tới các mảng kinh doanh khác trong khi vẫn duy trì sự nhạy cảm cho những khác biệt về văn hóa của nhóm", Dumas chia sẻ về công việc của mình.
8. Helen Grenier (CyPhy Works)
CEO của CyPhy, Helen Grenier, là một nhân vật mang tính biểu tượng trong ngành công nghiệp robot.
Cô là đồng sáng lập iRobot, một hãng sản xuất robot cho thị trường công nghiệp, tiêu dùng và quân sự. Cô cũng là một trong những người lập trình cho phiên bản robot Roomba đầu tiên của iRobot.
Công ty mới của cô, CyPhy Works, phát triển drone, lĩnh vực mới nhất của ngành công nghiệp robot.
Grenier phát triển drone thương mại, trong năm ngoái công ty của cô nhận được số vốn 882.478 USD từ 1.514 người trên Kickstarter. Sau đó, tương lai công ty của cô tiếp tục được đảm bảo nhờ khoản đầu tư 32 triệu USD từ các nhà đầu tư mạo hiểm.
Trước khi thành lập iRobot, Grenier làm việc tại trung tâm nghiên cứu Jet Propulsion Lab của NASA và trung tâm trí tuệ nhân tạo Artificial Intelligence Lab của MIT. Năm 2007, cô là một trong bốn phụ nữ đoạt giải Women in Technology International Hall of Fame, giải thưởng hàng năm vinh danh những phụ nữ có nhiều thành tựu trong công nghệ.
9. Noramay Cadena (Make in LA)
Cadena là đồng sáng lập của Make in LA, một hãng khởi nghiệp tập trung vào các dự án phần cứng. Trước đó, cô đã rất nổi tiếng tại Mỹ với nhiều thành tựu trong ngành công nghiệp hàng không vũ trụ.
Trước khi thành lập Make in LA, Cadena làm việc 12 năm tại Boeing, lãnh đạo một nhóm phát triển khoang vận chuyển của Boeing cho Trạm Vũ trụ Quốc tế, dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong năm 2017. Cô cũng góp sức vào các dự án phát triển vệ tinh và máy bay.
Ngoài ra, cô còn là đồng sáng lập và điều hành của Latinas in STEM Foundation, một tổ chức hỗ trợ trẻ em Latin theo đuổi ước mơ trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ.
10. Juliette McCoy (Ford)
McCoy đã gắn bó với Ford gần 30 năm và phấn đấu hết mình để trở thành kỹ sư trưởng phụ trách hệ thống kiểm soát Powertrain trên toàn cầu.
Hệ thống mà bà phụ trách được trang bị cho tất cả các xe Ford và Lincoln. Số nhân viên mà bà quản lý lên tới 1.000 người tại chín quốc gia.
McCoy đã nhận được nhiều bằng sáng chế và giải thưởng cho những cống hiến của bà. Năm 2015, bà nhận giải Lãnh đạo Toàn cầu từ Hiệp hội Nữ Kỹ sư.
Ngoài việc phát triển xe hơi, bà còn cải thiện môi trường làm việc của Ford, tạo ra một cơ sở dữ liệu toàn cầu cho phép nhân viên báo cáo những trở ngại. Dựa trên hệ thống ấy, Ford đã tạo ra hàng ngàn thay đổi cho nhân viên và khiến nhân viên của họ hài lòng hơn với môi trường làm việc.
McCoy cũng thay đổi các đào tạo nhân viên, nghĩ ra những phương thức đào tạo mới và biến những phương thức sáng tạo này trở thành tiêu chuẩn trong công ty.
Tham khảo BI

Ví dụ minh chứng robot không hề kém con người ở khoản âm nhạc nghệ thuật

Chơi nhạc giờ không còn là đặc quyền của riêng con người nữa, và chắc hẳn không nhiều người có thể chơi nhạc tương đương với các robot dưới đây.

Sự giao thoa giữa robot và nghệ thuật đang ngày càng trở nên rõ rệt hơn.
Chúng ta biết rằng robot có khả năng vẽ những bức tranh đẹp, nhưng ngoài ra chúng cũng chứng tỏ khả năng của mình khi bước vào lĩnh vực âm nhạc.
Trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm robot chơi nhạc từ năm 1985, và kết quả thu được rất xuất sắc.
Từ những robot hỗ trợ ghi âm lại album đến việc giúp đỡ con người trong việc chuyển đổi âm nhạc, dưới đây là 8 robot cho thấy khả năng của chúng trong lĩnh vực âm nhạc.
1985: "nghệ sỹ" piano robot này được tạo ra bởi trường đại học Universidad Autonoma de Puebla của Mexico. Robot này có khả năng đọc được các nốt nhạc và chơi piano theo các nốt nhạc đó.
Được gọi là Don Cuco El Guapo, robot này có camera đóng vai trò như đôi mắt để đọc các bản nhạc.
2005 : Toyota tạo ra một robot có khả năng thay đổi áp suất bên trong miệng của nó để nó có thể chơi được kèn trumpet.
Cánh tay và bàn tay của robot này hoạt động rất nhanh nhẹn nên cho phép nó có thể chơi nhạc giống như người. Toyota cũng làm các robot khác, có khả năng chơi kèn tuba và trống, để tạo ra cả một ban nhạc toàn robot.
2008 : Greg Locke, một người thiết kế máy móc ở New Zealand, đã tạo ra một con ban nhạc rock toàn robot, được gọi là The Trons.
Theo báo Telegraph, The Trons gồm Wiggy, robot chơi ghita chính, Ham robot chơi ghita nền, Swamp robot chơi trống, và tay chơi bộ gõ Fifi. Ban nhạc này đã thu âm một số bài như “Sister Robot” và “The Trons Theme”.
2013 : các kỹ sư từ Đại học Tokyo đã tạo ra một ban nhạc robot được gọi là Z-Machines, và nhóm này đã ghi lại toàn bộ một album.
Theo trang WIRED, nhà soạn nhạc điện tử người Anh Squarepusher (nghệ danh của Tom Jenkin) đã ghi lại album “Music for Robots” sau khi nghe ban nhạc này chơi bài đầu tiên của ông “Sad Robot Goes Funny.”
2013 : cùng năm đó một ban nhạc rock khác có tên gọi Compressorhead đã được tạo ra hoàn toàn từ robot và đã ký được hàng loạt hợp đồng biểu diễn âm nhạc từ năm 2012.
Ba nghệ sỹ người Đức đứng đằng sau dự án chế tạo này đã gọi được nguồn vốn lên đến 45.500 USD trên trang Kickstarter để làm một ca sỹ robot. Giờ họ đang trong quá trình ghi âm một album với ca sỹ robot mới này.
2014 : các nhà nghiên cứu tại Đại học Công nghệ Georgia đã trang bị cho một tay trống cánh tay giả, cho phép anh này có thể tiếp tục chơi trống sau khi bị mất cánh tay phải, phần phía dưới khuỷu tay.
Cánh tay robot này có hai thanh gõ : một thanh được điều khiển bằng thể lực của tay trống, trong khi thanh còn lại có bộ não riêng của mình. Thanh gõ có bộ não riêng của mình được trang bị các cảm biến cơ điện đồ (EMG), cho phép tay trống có thể kiểm soát thanh này bằng các động tác uốn tay.
2015 : những robot nhỏ ở bên cạnh tay trống trong hình dưới đây, là các “bè họa âm” có thể ứng tác nhạc và nhảy theo nhạc dựa trên những gì đang được chơi.
Một người máy kết hợp điện thoại thông minh cũng có thể nhảy theo bất cứ loại nhạc nào bạn nghe trong chiếc điện thoại của mình.
2016 : các nhà nghiên cứu Đại học Công nghệ Georgia chuyển đổi một tay trống thông thường thành một người cyborg (người máy sinh học), khi họ trang bị cho anh này một cánh tay robot.
Cánh tay thông minh dài 2 foot này, được gắn vào vai của tay trống và có khả năng phản hồi lại loại âm nhạc mà nó nghe thấy. Điều đó có nghĩa là nếu tay trống muốn chơi với nhịp chậm, cánh tay robot có thể nghe thấy và làm theo.
Robot âm nhạc của tương lai : nghệ sỹ chơi Jazz và đồng thời là nhà khoa học máy tính ông Kelland Thomas đang xây dựng một hệ thống trí tuệ nhân tạo AI, có thể học chơi nhạc Jazz với mục tiêu cuối cùng là nhằm tạo ra một robot có thể chơi bên cạnh nhạc sỹ.
Thomas đang nhận được tài trợ từ DARPA để biến tầm nhìn trên thành hiện thực. Hy vọng của anh ấy là tạo ra một robot đó trong vòng năm năm tới.
Tham khảo Techinsider

Mark Zuckerberg: "Elon Musk đang lo lắng hoang tưởng về trí tuệ nhân tạo"

Lo sợ về cuộc cách mạng trí tuệ nhân tạo đang phát triển, lây lan ở Silicon Valley.

Khi nói tới cuộc chiến giữa con người và máy móc, nhiều giám đốc công nghệ lo sợ rằng máy móc sẽ thắng. Từ Elon Musk, Peter Thiel tới Reid Hoffman đều đang đổ tiền vào một số dự án tiêu biểu của Y Combination nhằm chắc chắn rằng viễn cảnh máy móc kiểm soát con người không xảy ra.
Tuy nhiên, CEO Mark Zuckerberg của Facebook lại tỏ ra khá bình thản. Trong cuộc phỏng vấn với một tờ báo Đức, tỷ phú trẻ người Mỹ chia sẻ rằng đừng lo lắng quá nhiều về trí tuệ nhân tạo. Ngoài ra, anh còn cho rằng Musk đang phản ứng thái quá với vấn đề này.
Zuckerberg cho rằng robot kiểm soát con người nếu chúng ta lập trình họ theo hướng xấu. Một máy tính có thể đánh cờ thắng con người có trí thông minh được chính con người thiết kế, nó không hề tự học cách vượt qua con người, anh lập luận.
"Tất cả các loại máy móc đều được lập trình để phục vụ con người trừ khi chúng ta làm điều gì đó dại dột", Zukerberg chia sẻ.
Dưới đây là một vài câu trả lời của Zuckerberg cuộc phỏng vấn. Những câu trả lời của anh thể hiện quan điểm của anh về sự phát triển trong tương lai của robot và máy móc và lý do tại sao anh không hề sợ robot sẽ kiểm soát con người:
PV: Trí tuệ nhân tạo sẽ làm xã hội chúng ta thay đổi như thế nào?
Zukerberg: Từ kinh nghiệm của mình, tôi nhận ra con người học hỏi theo hai cách. Một cách là học có giám sát và các còn lại là học không giám sát. Có thể hiểu học có giám sát là bạn đọc cuốn sách dành cho trẻ em cho con của bạn và chỉ cho chúng tất cả mọi thứ.
Đây là một con chim, đây là một con chó, còn đây là một con chó khác. Nhờ vậy, trẻ em có thể nhận ra một chú chó vì bạn đã nói với chúng tới 15 lần rằng đó là một con chó. Đó là học có giám sát, một hệ thống nhận dạng theo mẫu. Và đó là tất cả những gì chúng ta biết làm hiện tại.
Cách còn lại, học không giám sát, là cách mà hầu hết mọi người sẽ dùng để học tập trong tương lai. Bạn dựng lên cách mà thế giới sẽ hoạt động ở trong đầu và tinh chỉnh nó để dự đoán những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Sử dụng điều đó để định hình những gì bạn làm và suy nghĩ của bạn. Ví dụ: Tôi sẽ thực hiện một vài hành động và tôi mong rằng thế giới sẽ vận hành theo những hành động của tôi. AI sẽ giúp chúng ta thực hiện điều đó.
PV: Anh có hiểu những lo ngại về AI của Elon Musk? Musk sợ rằng một ngày nào đó AI sẽ thống trị và kiểm soát suy nghĩ của con người và mạnh hơn so với con người. Anh nghĩ rằng đó là những lo ngại chính đáng hay một sự hoang tưởng?
Zukerberg: Tôi nghĩ rằng sự lo lắng của Musk có phần hoang tưởng.
PV: Làm cách nào để chúng ta chắc chắn rằng robot và máy tính đang phục vụ con người và không chống lại chúng ta?

Zukerberg: Tôi nghĩ rằng tất cả các máy tính mà chúng ta xây dựng có nhiệm vụ mặc định là phục vụ con người. Nên chúng sẽ tiếp tục nhiệm vụ trừ khi chúng ta làm điều gì đó dại dột.
PV: Trong cờ vua, kỳ thủ Garry Kasparov vừa bị đánh bại bởi máy tính Big Blue. Anh có sợ rằng trong tương lai sẽ có thêm nhiều máy tính thông minh hơn con người?
Zukerberg: Vâng, nhưng trong trường hợp Big Blue, máy tính được con người xây dựng để có thể làm điều gì đó tốt hơn so với con người. Từ trước tới nay, đã có rất nhiều máy tính được xây dựng để làm điều gì đó tốt hơn so với con người. Tôi nghĩ rằng đây là một lĩnh vực mà con người đang đánh giá quá cao khả năng của AI.
Máy tính thông minh hơn con người không có nghĩa là nó có thể học hỏi các lĩnh vực mới hoặc kết nối các loại thông tin và ngữ cảnh khác nhau để làm những điều phi thường.
PV: Do vậy phim khoa học viễn tưởng sẽ không xảy ra trong đời thực và chúng ta không cần phải lo lắng cho sự an toàn của trí tuệ con người?
Zukerberg: Tôi nghĩ rằng trong tương lai, chúng ta sẽ tìm ra cách bảo vệ an toàn cho trí tuệ con người. Các cuộc tranh luận ngày nay làm tôi nhớ lại thời điểm những năm 1800. Khi đó, mọi người có thể đã bàn luận với nhau rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ chế tạo được máy bay và máy bay có thể bị rơi. Tuy vậy, con người vẫn tập trung vào phát triển máy bay và sau đó tập trung vào an toàn hàng không. Nếu chúng ta tập trung vào sự an toàn ngay từ ban đầu, chẳng ai có thể chế tạo được máy bay.
Những suy nghĩ sợ hãi có thể cản trở quá trình phát triển. Ví dụ, xe tự lái xuất hiện để ngăn ngừa tai nạn xe hơi, AI sẽ chịu trách nhiệm hạn chế một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. Tương tự như vậy, AI có thể giúp các bác sĩ chẩn đoán bệnh và điều trị cho mọi người tốt hơn. Ngăn chặn những tiến bộ trong phát triển AI có thể sẽ là điều tệ nhất mà bạn có thể làm trong quá trình khiến thế giới trở nên tốt đẹp hơn.
Tham khảo BI

Robot đang tự dạy dỗ lẫn nhau để trở nên thông minh hơn

Vì một tương lai tươi đẹp.

Một mục tiêu mới trong ngành robot đó là cho chính các cỗ máy tự động thu thập thông tin xử lý những đồ vật thường ngày của con người.
Nhiều trong số những công việc con người muốn thay thế nhân lực bằng robot như bê vác đồ đạc trong nhà kho, trợ giúp người nằm liệt giường hoặc hỗ trợ người lính trong những tình huống nguy hiểm vẫn chưa thể được hiện thực hóa vì khả năng của robot nhận diện và xử lý những vật thể thông thường xung quanh chúng ta còn rất hạn chế.
Con người bình thường không gặp khó khăn gì với việc gấp quần áo, cầm một chiếc cốc nước vì chúng ta đã trải qua một quá trình thu thập thông tin khổng lồ. Quá trình này thường được biết đến là “Tuổi Thơ”, giáo sư Stefanie Tellex về khoa học máy tính tại đại học Brown giải thích. Đối với robot, mỗi khi đảm nhiệm một công việc dù là đơn giản đến mấy, robot cần phải truy cập thông tin mã hóa về cách cầm và sử dụng các vật thể. Thông tin này từ đâu đến? Thông thương những tệp mã hóa này được lập trình một cách kỹ lưỡng và tỉ mẩn bởi con người. Nhưng bây giờ robot có thể tự xây dựng hệ thống thông tin mã hóa và chia sẻ với các cỗ máy tự động khác trên toàn thế giới.
Và đấy là cơ sở đằng sau mục tiêu “Một triệu đối tượng vật thể” của giáo sư Tellex. Nghiên cứu này nhằm tạo ra một triệu thông tin mã hóa từ những con robot trên khắp thế giới chuyên nghiên cứu về đặc tính đồ vật và tự động tải lên kết quả lên bộ nhớ đám mây để các con robot khác có thể tải xuống và áp dụng vào công việc của mình.
Giáo sư Stefanie Tellex và con robot Baxter tại đại học Brown.
Giáo sư Stefanie Tellex và con robot Baxter tại đại học Brown.
Phòng nghiên cứu của giáo sư tại đảo Rhode có không khí của một trường mẫu giáo. Tại đó một con robot dòng Baxter, một cỗ máy công nghiệp thông minh sản xuất bởi Rethink Robotics, đang quét hình một chiếc bàn chải tóc ở nhiều góc độ khác nhau bằng máy chụp 3d hồng ngoại. Và bằng cánh tay hai càng của mình thử nghiệm các cách cầm khác nhau để nâng được chiếc bàn chải một cách hiệu quả nhất. Sau khi đã cầm được, con robot lắc mạnh cánh tay để xác nhận việc cầm bàn chải thành công. Và như vậy, con robot đã học được cách cầm thêm một món đồ vật.
Baxter có thể hoạt động 24 giờ mỗi ngày, với một món trên mỗi cánh tay của mình. Những người nghiên cứ khác trên toàn thế giới có thể góp vào kết quả thông tin từ những con robot của mình, Stefanie Tellex mong có thể xây được một thư viện thông tin khổng lồ để robot có thể xác định và xử lý 1 triệu vật thể khác nhau một cách nhuần nhuyễn. “Và một ngày nào đó, một con robot bất kỳ có thể nhận diện một chiếc bút trên một kệ tủ chứa đầy đồ đạc và nhặt nó lên”.
Việc thu thập thông tin nghiên cứu này khả thi do robot nghiên cứu nói chung trên thế giới sử dụng chuẩn hệ thống lập trình giống nhau, tên là ROS. Một khi một con robot học được cách thực hiện một hành động, gửi thông tin mã hóa sang cho những cỗ máy khác, những cỗ máy này có thể tiếp tục cải thiện thông tin và tiếp tục chuyển thông tin này đi. Giáo sư cho biết, thông tin mã hóa một vật thể và cách cầm có thể nén lại thành môt tệp chừng 5 đến 10 mb, cỡ một bài nhạc trong thư viện của bạn.
Thư viện khổng lồ này đặc biệt còn rất có ích vì có thể áp dụng cho những con robot khác hẳn nhau về hình dáng, mẫu mã. Dù chương trình phát triển còn chậm nhưng trong khoảng từ năm đến mười năm nữa, “chúng ta có thể chứng kiến một sự bùng nổ về khả năng của robot” theo CEO của Brain of Things, Saxena. Hàng ngày những người đóng góp cho nghiên cứu càng nhiều và đẩy nhanh dần tốc độ hoàn thiện của trí tuệ đám mây này, ông Saxena phát biểu: “Nhũng cỗ máy robot thông minh sẽ có tất cả thông tin chúng cần ngay trong lòng bàn tay".
Tham khảo Technology Review

Zuckerberg bộc lộ tham vọng thống trị 3 lĩnh vực trong 10 năm tới

Mark Zuckerberg, CEO Facebook, vừa đăng tải một video chia sẻ về một số dự án sáng tạo nhất của công ty cũng như tham vọng của hãng trong năm 2025.

Zuckerberg cho biết vào thời điểm đó, anh hy vọng nhìn thấy sự tiến bộ trong ba lĩnh vực chính là: Khả năng kết nối, Trí tuệ nhân tạo và Thực tế tăng cường.
Về Khả năng kết nối, Zuckerberg cho biết hiện khoảng 3 tỷ người trên thế giới có cơ hội kết nối với Internet trong khi dân số thế giới là 7 tỷ người.
"Tôi nghĩ rằng ở xu hướng hiện tại, nếu không có những công nghệ mới thực sự đột phá nào, chúng tôi đang trên đà kết nối thêm 1 tỷ người nữa", Zuckerberg nói. "Do vậy chúng tôi vẫn sẽ ở đây vào năm 2020 hoặc muộn hơn một chút khi mà có khoảng 4 tỷ người được kết nối với Internet. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng một nửa dân số thế giới chưa được tiếp cận với Internet. Vì vậy, chúng tôi khi vọng bẻ cong được quá trình này theo hướng nhanh hơn nhờ áp dụng các công nghệ, hợp tác với nhiều đối tác. Tôi không nghĩ rằng sẽ giúp được cả 7 tỷ người nhưng có thể là 5 hoặc gần 6 tỷ người sẽ có cơ hội kết nối Internet vào năm 2025".
Trong lĩnh vực Trí tuệ nhân tạo, Zuckerberg cho rằng câu hỏi lớn nhất trong ngành công nghiệp này liên quan tới việc "học tập không giám sát" của các cỗ máy. Nếu được tự do học tập, các cỗ máy có thể tự suy ra được những gì chúng không biết và không bị ảnh hưởng bởi tác động tích cực cũng như tiêu cực trong quá trình tìm ra giải pháp. Nhưng đó là một vấn đề lớn sẽ được giải quyết theo thời gian. Ngay bây giờ, Zuckerberg và Facebook tập trung vào các vấn đề thực tế hơn như cải thiện phần mềm nhận dạng giọng nói.
"Tôi đã thực hiện một vài thử nghiệm nhưng không được thành công cho lắm. Tuy nhiên, hệ thống nhận dạng giọng nói này sẽ hoạt động trơn tru trong vòng 10 năm tới", Zuckerberg chia sẻ. "Hy vọng rằng chúng tôi có thể rút ngắn thời gian".
Anh chia sẻ rằng Trí tuệ nhân tạo sẽ đóng góp vào một số đột phá mà hiện tại đã thành hiện thực nhưng chưa được triển khai. Zuckerberg hy vọng những công nghệ như xe tự lái - cả xe tự lái hoàn toàn và xe được trang bị công nghệ hỗ trợ lái xe - và hệ thống giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh sẽ sớm được triển khai trên toàn cầu.
CEO 31 tuổi cũng chia sẻ về tiềm năng của thực tại ảo và thực tế tăng cường.
"Hiện tại, có một câu hỏi thực sự khó đang cần câu trả lời để tạo ra trải nghiệm mà tất cả chúng ta đều muốn. Đâu là loại kính mà chúng ta có thể đeo trên đầu hàng ngày để có thể trải nghiệm thực tại ảo thay cho những chiếc kính to đùng hiện tại?", anh nói. "Nhưng chúng ta đang trong giai đoạn khởi đầu của ngành công nghiệp này. Thật phấn khích khi được theo dõi ngành công nghiệp này sẽ phát triển như thế nào trong vòng 10 năm tới".
Ngay bây giờ, Facebook đang đầu tư rất mạnh vào thực tại ảo. Với thực tại ảo, bạn sẽ hoàn toàn đắm chìm vào thế giới ảo. Hãng này mua lại Oculus VR vào năm 2014 với giá 2 tỷ USD. Oculus dự tính trình làng kính thực tại ảo đầu tiên vào ngày 28/3 tới.
Tuy vậy, Facebook cũng đang nghiên cứu về công nghệ thực tế tăng cường như HoloLens của Microsoft. Với công nghệ này, bạn có thể thấy những yếu tố kỹ thuật số trong tầm nhìn nhưng bạn vẫn đang nhìn vào thế giới thực. "Tăng cường thực tại là một công nghệ trong tương lai xa hơn", Zuckerberg chia sẻ trong tháng 10 năm ngoái.
Zuckerberg cho biết các công nghệ thay đổi thực tại sẽ mất ít nhất 10 năm để trở thành một công nghệ phổ biến như smartphone. Smartphone cần gần một thập kỷ để đạt được mốc doanh số 1 tỷ chiếc được bán ra trên toàn cầu. CEO Facebook khẳng định hãng này sẽ cam kết lâu dài với thực tại ảo và thực tại tăng cường. Và hãng này có nguồn lực để đầu tư trên toàn thế giới để cải tiến nghiên cứu về những công nghệ mới nổi này.
"Tôi nghĩ rằng thực tế ảo sẽ tạo ra một sự khác biệt lớn trong việc giúp mọi người chia sẻ những gì họ quan tâm và giúp đỡ tất cả mọi người chia sẻ trong các cơ hội của Internet", Zuckerberg hào hứng nói.
Tham khảo BI

Trận đấu giữa Google AI và kiện tướng cờ vây Lee Sedol

Trận đấu có một không hai giữa trí tuệ nhân tạo của Google và kỳ thủ cờ vây người Hàn Quốc đang diễn ra.

Cách đây không lâu, Google đã tuyên bố rằng trí tuệ nhân tạo mà họ phát triển có thể đánh bại được các kiện tướng của môn cờ vây. Và để chứng minh điều đó là thật, các nhà phát triển hệ thống AlphaGo này đã thách thức kiện tướng cờ vây Lee Sedol, trong một trận đấu 5 game diễn ra bắt đầu vào ngày hôm nay.
Vào lúc 10h30 sáng 9/3 theo giờ Việt Nam, kênh YouTube của phòng nghiên cứu trí tuệ nhân tạo Google DeepMind sẽ tường thuật trực tiếp game đấu 1 giữa AlphaGo và Lee Sedol. Tức là chỉ ít phút nữa thôi trận đấu này sẽ được bắt đầu.
Các bạn có thể theo dõi trực tiếp tại kênh YouTube của DeepMind:
Đây cũng là trận đấu cờ vây đầu tiên giữa một hệ thống máy tính và một kiện tướng được công khai và truyền hình trực tiếp. Trước đó các trận đấu cờ vây giữa người và máy chỉ được giữ kín trong phạm vi phòng thí nghiệm.
Kiện tướng cờ vây Lee Sedol năm nay 33 tuổi, đã từng là cờ thủ đẳng cấp nhất trên thế giới. Anh có một bảng thành tích dày đặc từ năm 2002 cho đến nay.
Sau khi game đấu đầu tiên này được diễn ra tại khách sạn Four Seasons ở Seoul, Hàn Quốc, các trận đấu tiếp theo sẽ được tổ chức trong một vài ngày tới và cũng sẽ được truyền hình trực tiếp trên kênh YouTube.
Cách đây 5 tháng, hệ thống trí tuệ nhân tạo AlphaGo của Google đã từng đánh bại kỳ thủ Fan Hui, người đã từng vô địch giải cờ vây tại Pháp.
Trong khi đó, Facebook cũng đã từng tiết lộ về một hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể đánh bại con người trong bộ môn cờ vây. Nhưng chưa bao giờ công khai các kết quả thi đấu thực sự của trí tuệ nhân tạo này.
Tham khảo: VentureBeat

2016 sẽ bắt đầu một kỷ nguyên mới - nơi máy móc thay thế con người

Từ trí thông minh nhân tạo cho tới robot, 2016 sẽ là năm mà máy móc bắt đầu trỗi dậy.

Trải qua cả thế kỷ, sự phát triển của giá thành và hiệu năng của điện toán giờ đã nằm trên một đường cong hàm mũ bất tận. Và, theo cái nhìn của nhà tương lai học Ray Kurzweil, bất kì công nghệ nào chuyển biến trở thành công nghệ thông tin, đều sẽ phát triển theo đường cong đó, bởi vậy chúng ta mới có thể thấy tiến bộ theo cấp số nhân ở những công nghệ như sensor, mạng, trí thông minh nhân tạo và robot. Và sự đồng quy của những công nghệ này chính là việc biến những việc không tưởng thành hiện thực.
2015 là năm đỉnh điểm của việc những thứ như Internet, thiết bị y tế kỹ thuật số, blockchain, biến đổi gen, drone và năng lượng mặt trời trở nên phổ biến trên toàn cầu. 2016 sẽ là khởi đầu của những sự đổi mới còn lớn lao hơn, là thứ sẽ thay đổi cách chúng ta sống, đưa ta tới những chân trời mới và dẫn chúng ta tới một tương lai nhàn hạ. Đương nhiên, luôn luôn có điều xấu đi kèm với tốt đẹp; những điều tuyệt vời sẽ khả thi, nhưng chúng cũng sẽ đem đến những vấn đề mới cho nhân loại.
Và đây là sáu công nghệ sẽ khiến những điều trên thành hiện thực, và những gì tốt đẹp chúng mang lại.
Trí thông minh nhân tạo
Her
Her
Trong cộng đồng trí thông minh nhân tạo (A.I), có một câu cửa miệng rằng: “A.I là một thứ gì đó vẫn chưa được hoàn thiện”. Họ gọi nó là “Hiệu ứng A.I”. Những kẻ hoài nghi phớt lờ những biểu hiện của một chương trình AI bằng việc cho rằng, thay vì trở thành một bộ óc thực sự, nó đơn giản chỉ là brute force và các thuật toán.
Những lời chỉ trích cũng có cái đúng: cho dù máy tính đã có thể đánh bại các kỳ thủ cờ và người chơi Jeopardy, học được cách giao tiếp với chúng ta và lái cả xe, thì Siri và Cortana vẫn chưa phải là hoàn thiện cũng như dễ gây bực mình. Chúng có thể pha trò và cho ta biết thời tiết hôm nay, nhưng chẳng bao giờ so sánh được với nàng thư ký ảo quyến rũ trong bộ phim Her.
Nhưng điều này đang dần thay đổi, và ngay cả những người cứng đầu nhất cũng công nhận rằng thời của A.I đã tới. Đã có những bước nhảy vọt trong mạng neuron “deep learning”, khi mà chúng học hỏi bằng cách nhồi một lượng lớn dữ liệu: IBM đã dạy hệ thông A.I của họ, Watson, mọi thứ từ nấu ăn, tài chính, cho tới y dược; và Facebook, Google cũng như Microsoft đã có những bước tiến lớn trong nhận diện khuôn mặt và hệ thống giọng nói như con người. Nhận diện khuôn mặt dựa vào A.I đã gần như đạt đến khả năng của con người. Và Watson của IBM có thể chẩn đoán ung thư giỏi hơn bất cứ bác sĩ nào.
Với việc IBM Watson đã sẵn sàng cho các nhà phát triển, Google cũng mở mã nguồn cho phần mềm deep learning của mình, và Facebook công bố thiết kế phần cứng A.I của mình, chúng ta có thể mong chờ về hàng loạt các ứng dụng sẽ nổi lên – bởi những người đi đầu trên toàn thế giới đều đã nhúng tay vào. A.I sẽ có mặt ở bất kỳ đâu có máy tính, và sẽ ngày càng giống con người hơn.
May thay, chúng ta vẫn chưa phải lo ngại về một A.I siêu cường; điều này vẫn còn là một thứ xa vời hàng thập kỷ
Robot
Tại Robotics Challenge DARPA 2015, người ta đòi hỏi những robot phải hoàn thành điều hướng một màn tám nhiệm vụ trong một vùng thiên tai giả lập. Khá là khôi hài khi nhìn chúng di chuyển với tốc độ rùa bò, treo máy và đổ chổng kềnh. Quên đi những việc như giặt là hay phục vụ con người, những robot này còn chẳng thể nghĩ đến chuyện đi bộ. Mặc dù cách đây ba năm ta còn được nghe về chuyện Foxconn sẽ thay thế hàng triệu công nhân trong nhà máy bằng robot, nhưng nó chẳng hề thành hiện thực.
Tuy nhiên sự đột phá, đã chạm tới tầm tay. Để bắt đầu, một thế hệ robot mới vừa được giới thiệu bởi những công ty như ABB của Thụy Sỹ, Universal Robots của Đan Mạch và Boston Rethink Robotics – robot đã đủ khéo léo để xâu chỉ qua kim và đủ nhạy bén để có thể làm việc bên cạnh con người. Chúng có thể lắp ráp vi mạch và đóng hàng. Chúng ta đã đến được đỉnh cao của cuộc cách mạng robot trong công nghiệp.
Robot phục vụ gia đình lại là vấn đề khác. Việc nhà nhìn có vẻ tầm thường, nhưng chúng lại cực kỳ khó để máy móc có thể thực hiện. Quét dọn một căn phòng hay gấp quần áo cần đến những thuật toán còn phức tạp hơn cả những thứ dùng để đưa con người lên mặt trăng. Nhưng đã có những đột phá, chủ yếu điều khiển bởi A.I, cho phép robot có thể học hỏi những nhiệm vụ nhất định và dạy những con khác những gì mình học được. Và với hệ điều hành mã nguồn mở, ROS, hàng ngàn nhà phát triển trên thế giới sẽ ngày càng tiến gần đến những thuật toán hoàn hảo.
Bạn đừng nên ngạc nhiên nếu một ngày robot xuất hiện tại siêu thị, và tại nhà của chúng ta. Rồi đến những năm 2020, có lẽ chúng ta sẽ có được những robot quản gia thực sự.
Xe tự hành
Từng được cho là thứ viễn tưởng, xe không người lái đã trở thành tâm điểm trong năm 2015. Google đã chạm mốc triệu dặm cho mẫu thử của họ; Tesla công bố những tính năng của chiếc xe mới; và những nhà sản xuất xe hơi cũng bắt đầu nói về kế hoạch của họ cho xe robot. Những thứ này đang tới, cho dù ta có sẵn sàng hay không. Và cũng như robot, chúng sẽ học hỏi lẫn nhau – về cảnh quan của đường phố và những thói xấu của con người.
Trong một hai năm tới, ta sẽ thấy những xe robot được hoàn thiện và thử nghiệm trên xa lộ, và chúng sẽ làm chủ những cung đường. Cũng như những con ngựa bị lãng quên, những chiếc xe này sẽ dần thay thế con người. Bởi chúng sẽ chẳng đâm vào nhau như chúng ta, chúng cũng chẳng cần giảm chấn nên sẽ nhẹ nhàng và thoải mái hơn nhiều. Hầu hết sẽ chạy điện. Ta cũng sẽ chẳng phải lo về chỗ đỗ xe, không lo giới hạn tốc độ. Và khoảng cách sẽ không còn là một rào cản nữa.
Thực tế ảo và holodeck
Thực tế ảo sẽ thay đổi cách chúng ta học tập và giải trí. Con cháu ta sẽ được giáo dục một cách đầy trải nghiệm hơn, bởi chúng có thể đến thăm La Mã cổ đại hay kể cả du hành trong cơ thể con người. Ta có thể dành thời gian bữa trưa để thăm thú những nơi xa xôi hay chơi laser tag vào buổi tối với một ngươi bạn cách xa vạn dặm. Và thay vì đi xem phim tại rạp IMAX, ta có thể hòa mình vào những cảnh hành động, ngồi ghế sau tận hưởng một cuộc rượt đuổi nghẹt thở.
Internet of Things
Mark Zuckerberg vừa công bố kế hoạch tạo ra trí thông minh nhân tạo của riêng mình, một quản gia điều khiển bằng giọng nói hỗ trợ mình hằng ngày và trong công việc. Với nó, ông sẽ cần những thiết bị có thể giao tiếp với quản gia ảo của mình – một hệ thống nhà ở, văn phòng và ô tô kết nối với nhau. Từ vòi sen có thể theo dõi lượng nước ta sử dụng cho tới bàn chải có thể phát hiện sâu răng, hay là tủ lạnh có thể đặt mua thức ăn sắp hết, tất cả đều sắp thành hiện thực.
Bắt đầu vào năm nay, mọi thứ sẽ được kết nối lại – từ nhà cửa cho đến xe cộ, đèn đường hay cả thiết bị y tế. Chúng sẽ chia sẻ thông tin với nhau và, có lẽ, còn bàn tán về chúng ta, có thể còn đem đến những rủi ro về an toàn cực lớn đồng hành cùng với sự tiện lợi. Nhưng ta sẽ chẳng có nhiều sự lựa chọn, bởi đây sẽ là những tính năng cơ bản – như việc camera trên Smart TV có thể theo dõi mọi cử chỉ, cho đến smartphone có thể nghe thấy mọi thứ ta nói.
Vũ trụ
Tên lửa, vệ tinh, và tàu vũ trụ vốn là những thứ do chính phủ làm ta - cho tới khi Elon Musk bước vào cuộc chơi năm 2002, với startup SpaceX của mình. Một thập kỷ sau, ông đã cho thấy khả năng đáp tàu vũ trụ lên ISS và đem về hàng hóa. Một năm sau, ông cho phóng một vệ tinh địa tĩnh thương mại. Và tới năm 2015, bỗng xuất hiện một tỉ phú khác, Jeff Bezos, chủ của một công ty vũ trụ, Blue Origin, đã phóng một tên lửa lên độ cao 100km trên không gian và hạ cánh thành công xuống bãi phóng. Điều mà SpaceX vừa mới làm được cách đó chỉ một tháng, đơn giản là Bezos đã vượt mặt Musk.
Đây đã là một cuộc đua, vào những năm 60, giữa Mỹ và U.S.S.R trong việc đưa con người lên mặt trăng. Hàng thập kỷ sau, không nhiều việc như thế này xảy ra, bởi chẳng ai có thể cạnh tranh với Mỹ. Và giờ đây, ta phải cảm ơn sự giảm giá thành cực nhanh của công nghệ khiến cho thám hiểm vũ trụ có thể làm được với con số triệu đô chứ chẳng cần đến hàng tỉ, và với cuộc chơi danh dự của hai nhà tỉ phú, ta sẽ thấy được những đột phá trong thám hiểm vũ trụ mà trước đó luôn được mong đợi. Có thể sẽ chẳng có gì ngoài vài cuộc phóng tên lửa và vẫn là sự ganh đua giữa Musk và Bezos trong 2016, nhưng ta rồi sẽ dần chạm chân được tới Sao Hỏa.
Đây chắc chắn là thời kỳ cực thịnh sáng tạo nhất trong lịch sử loài người, một kỷ nguyên sẽ được nhớ tới như một điểm ngoặt trong công nghệ biến những điều không thể thành hiện thực.
Theo Techcrunch.